(FDI Việt Nam) – Thị trường Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt gạo nghiêm trọng, tạo ra cơ hội lớn cho ngành lúa gạo Việt Nam. Đây là thời điểm thuận lợi để gạo Việt – vốn đang cải tiến vượt bậc về cả chất lượng và thương hiệu, khẳng định vị thế tại một trong những thị trường khó tính nhất thế giới.

LÔ ĐẦU TIÊN XUẤT SANG NHẬT BẢN: SỨ GIẢ CỦA GẠO VIỆT
Trước bối cảnh thị trường Nhật Bản đang thiếu hụt nguồn cung gạo nghiêm trọng, các cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam đã thể hiện sự phấn khởi và đồng loạt đề ra nhiều giải pháp quyết liệt, hiệu quả nhằm gia tăng sự hiện diện của gạo Việt tại thị trường Nhật Bản. Mục tiêu cuối cùng là nâng tầm thương hiệu và giá trị gạo Việt Nam trên toàn cầu.
Chiều ngày 9/6, bà Nguyễn Thị Thu Hương – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chia sẻ với Báo Điện tử Chính phủ về sự kiện quan trọng: Việt Nam vừa xuất khẩu thành công 500 tấn gạo đầu tiên mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” sang Nhật Bản vào ngày 5/6. Đây được xem là một bước tiến quan trọng, mở ra cơ hội lớn để gạo Việt tiếp cận sâu hơn với một trong những thị trường có giá trị cao và tiêu chuẩn nghiêm ngặt hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, để nắm bắt cơ hội này một cách bền vững, bà Hương nhấn mạnh cần có sự vào cuộc đồng bộ của toàn bộ chuỗi sinh thái ngành hàng lúa gạo. Trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung chính sách, quy trình kỹ thuật và hệ thống kiểm soát chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản, đồng thời đầu tư hạ tầng vùng nguyên liệu.

Các hiệp hội như Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam cần làm tốt chức năng kết nối thị trường, cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tuân thủ tiêu chuẩn sản xuất. Doanh nghiệp xuất khẩu cần gắn kết chặt với vùng nguyên liệu, đầu tư chế biến sâu, kiểm soát truy xuất nguồn gốc.
Nông dân và hợp tác xã – nhất là trong vùng triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp cần tiếp tục được hỗ trợ kỹ thuật, tập huấn về sản xuất an toàn, bền vững, và có thoả thuận liên kết minh bạch với doanh nghiệp. Khi nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp cùng liên kết dưới sự dẫn dắt của cơ quan quản lý nhà nước, sự vào cuộc tích cực của các hiệp hội, chúng ta mới có thể xây dựng được chuỗi giá trị gạo có năng lực cạnh tranh và uy tín vững chắc tại các thị trường cao cấp như Nhật Bản.
Ông Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, bày tỏ sự phấn khởi trước những triển vọng này. Ông nhấn mạnh rằng nâng cao giá trị lúa gạo, từ đó tăng thu nhập cho nông dân và cải thiện hiệu quả kinh doanh lúa gạo là mục tiêu chính trong phát triển ngành lúa gạo Việt Nam. Đây cũng là mục tiêu cốt lõi của Đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp.
Hiện nay, quy trình kỹ thuật sản xuất theo Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp đã được thiết kế để đảm bảo chất lượng gạo đáp ứng thị hiếu thị trường. Điều này nhờ việc sử dụng giống lúa phù hợp và tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là đảm bảo tồn dư hóa chất trong hạt gạo dưới ngưỡng tối đa cho phép theo tiêu chuẩn cao nhất, thông qua việc áp dụng các kỹ thuật canh tác bền vững.
Bên cạnh đó, một ưu việt khác mà Việt Nam đi tiên phong trên thế giới là áp dụng quy trình sản xuất lúa giảm phát thải trên diện rộng. Với việc thực hiện đầy đủ quy trình kỹ thuật của Đề án 1 triệu ha sẽ sản xuất gạo đạt tiêu chuẩn kép “xanh” và “phát thải thấp hay các-bon thấp”. Đây là sự khác biệt của chất lượng gạo Việt Nam từ Đề án 1 triệu ha hiện nay.
Tuy nhiên, để đưa được gạo Việt xanh phát thải thấp vào thị trường Nhật Bản cần có nhãn hiệu và thương hiệu. Đây là “trận đánh cuối” gian khó nhất để đi đến đích. Vì vậy, Đề án 1 triệu ha đã chuẩn bị những điều kiện, đó là sự liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp để đảm bảo doanh nghiệp có được nguồn lúa đạt tiêu chuẩn và điều kiện để sản phẩm gạo được công nhận “xanh, phát thải thấp”.
Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam đã xây dựng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” và đã ủy quyền sử dụng cho 07 doanh nghiệp với tổng lượng gạo 20.000 tấn. Ngày 5/6/2025, Công ty Trung An đã xuất sang Nhật Bản lô hàng gạo đầu tiên mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp”.

Ông Bùi Bá Bồng cho biết: “Hằng năm, Nhật Bản nhập khẩu khoảng 700.000 tấn gạo, chủ yếu từ Mỹ và Thái Lan. Tình hình khủng hoảng thiếu gạo hiện nay ở Nhật Bản là cơ hội cho gạo Việt Nam bước chân vào thị trường cao cấp này khi chúng ta đáp ứng được nguồn gạo đạt tiêu chuẩn cao của Nhật Bản từ Đề án 1 triệu ha mà sản phẩm đầu tiên của Công ty Trung An đang trên đường đến Nhật Bản là sứ giả”.
ĐỀ ÁN 1 TRIỆU HA LÚA CHẤT LƯỢNG CAO
Ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc Công ty Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TP. Cần Thơ), phân tích rằng tình trạng Nhật Bản đang thiếu hụt gạo nghiêm trọng hiện nay “chỉ là giọt nước tràn ly”. Vấn đề này đã được các doanh nghiệp Việt Nam dự báo từ hơn 3 năm trước.
Theo ông Bình, trong bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan đang diễn biến ngày càng trầm trọng trên toàn cầu, tình trạng khan hiếm lương thực sẽ đến với nhiều quốc gia chứ không riêng Nhật Bản, và khả năng khó phục hồi. Mặc dù giá gạo có lúc giảm và sản lượng lúa gạo ở một số quốc gia có thể dồi dào, nhưng về cơ bản đó chỉ là tình hình cục bộ và tạm thời.
Việt Nam có ưu thế và tiềm năng rất lớn để nâng cao chất lượng và giá trị lúa gạo của mình trên trường quốc tế nói chung và Nhật Bản nói riêng. Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các Bộ ngành đã có những giải pháp rất tốt, kịp thời với việc thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đề án này đang phát huy hiệu quả cao và cần được triển khai quyết liệt để nhân rộng hơn nữa. Chỉ có như vậy, gạo Việt Nam mới tận dụng được cơ hội để nâng cao thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp.
Ông Bình nhấn mạnh rằng ngay lúc này, các địa phương cần phê duyệt Dự án liên kết sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp trong Đề án 1 triệu ha của doanh nghiệp và hợp tác xã để triển khai ra diện rộng. Điều này là cần thiết để có sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật Bản và một số thị trường khó tính khác như Mỹ, châu Âu và Trung Đông.
Theo ông Phạm Thái Bình: “Thị trường khó tính đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng cao nhưng giá trị cũng lớn, nên đây là giải pháp và cơ hội để ngành hàng lúa gạo Việt Nam phát triển bền vững, chấm dứt tình cảnh được mùa mất giá, sản phẩm hàng hóa sản xuất ra khó tiêu thụ vì không đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn thị trường và đòi hỏi của người tiêu dùng”.
Nguồn: Báo Chính phủ