(FDI Việt Nam) – Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu. Các chuyên gia nhận định căng thẳng thương mại toàn cầu có thể mở ra cơ hội hiếm có để thúc đẩy lĩnh vực này.
THAM VỌNG NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO VÀ LOẠT THÁCH THỨC
Theo Quyết định số 768/QĐ-TTg điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, Việt Nam đặt mục tiêu đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (ngoại trừ thủy điện), nâng tỷ trọng lên 28–36% vào năm 2030 và lên tới 74–75% vào năm 2050.
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu trong nước, Việt Nam còn định hướng trở thành trung tâm năng lượng tái tạo trong khu vực, với kế hoạch xuất khẩu từ 5.000 đến 10.000 MW sang các nước như Singapore và Malaysia vào năm 2035.

Quyết định này nhấn mạnh vai trò then chốt của năng lượng tái tạo trong chiến lược phát triển, nhưng đồng thời yêu cầu đảm bảo an toàn vận hành hệ thống và duy trì giá điện ở mức hợp lý. Các chuyên gia nhận định đây là bước đi thể hiện rõ quyết tâm của Việt Nam trong tiến trình chuyển dịch năng lượng theo xu hướng toàn cầu.
Việt Nam sở hữu nguồn năng lượng mặt trời đầy tiềm năng, ước tính đạt 963.000MW – con số được đánh giá đáng kinh ngạc so với công suất hiện tại là 16.600MW. Với 72GW của các dự án điện gió ngoài khơi dọc bờ biển dài 3.260km, giới phân tích nhận định tương lai ngành năng lượng tái tạo của Việt Nam là vô cùng rạng rỡ.
TS Nguyễn Vĩnh Khương – Giảng viên ngành Kỹ thuật điện tử và Hệ thống máy tính tại Đại học RMIT Việt Nam đánh giá, Quyết định 768 không chỉ thể hiện tham vọng mà còn có cơ sở thực hiện, nhờ khoản hỗ trợ 15,5 tỷ USD từ Quan hệ đối tác Chuyển đổi năng lượng công bằng với EU và Anh ký kết cuối năm 2022.
Theo ông, từng trang của câu chuyện năng lượng tái tạo thành công Việt Nam vẫn đang mở ra: theo Global Energy Monitor, công suất điện mặt trời và điện gió quy mô tiện ích đã đạt 19,5 GW, cao gấp đôi tổng công suất các nước ASEAN cộng lại. Năng lượng tái tạo hiện chiếm khoảng 25% cơ cấu nguồn điện quốc gia – vượt xa mức trung bình khu vực chỉ 9%.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những điểm nghẽn lớn. TS Khương chỉ ra rằng khoảng 90% thiết bị cho các dự án năng lượng tái tạo được nhập khẩu, phụ thuộc vào các nhà sản xuất Trung Quốc. Điều này khiến Việt Nam phải đối mặt với rủi ro địa chính trị và chuỗi cung ứng khi căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng.
“Các rủi ro này đang hiện hữu. Các doanh nghiệp Trung Quốc ở Việt Nam, chẳng hạn như Jinko Solar và Trina Solar, phải đối mặt với mức thuế của Mỹ lần lượt lên tới gần 245% và 202% sau quyết định của Mỹ từ tháng 4/2025. Một số doanh nghiệp năng lượng mặt trời Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ hiện đối mặt với mức thuế cao lên tới 813,92%, khiến chi phí dự án tăng phi mã và có khả năng làm cho đà tăng trưởng của ngành chậm lại”, ông Khương cảnh báo.
Một thách thức nghiêm trọng khác là sự mất cân đối giữa tốc độ phát triển nguồn và hạ tầng truyền tải. Trong khi dự án điện mặt trời công suất 50–100 MW có thể hoàn tất trong vòng 6 tháng, thì hệ thống truyền tải đi kèm cần tới 2–3 năm để hoàn thiện.
“Sự lệch pha này tạo ra nút thắt khiến niềm tin của nhà đầu tư giảm sút. Trong số 86 GW năng lực điện mặt trời và gió quy mô tiện ích tiềm năng được xác định tại Việt Nam, chỉ có 2% hiện đang trong quá trình xây dựng – một chỉ số chỉ rõ những thách thức trước mắt”, ông Khương cho biết.
TẬN DỤNG CĂNG THẲNG THƯƠNG MẠI ĐỂ BỨT PHÁ
Dưới góc nhìn của TS Khương, những biến động từ căng thẳng thương mại toàn cầu có thể mang lại cho Việt Nam cơ hội độc nhất để củng cố lĩnh vực năng lượng tái tạo của đất nước. Khi các công ty trên toàn thế giới tìm kiếm những giải pháp thay thế cho hàng sản xuất từ Trung Quốc, Việt Nam có thể định vị mình như một trung tâm chiến lược về sản xuất năng lượng tái tạo.
“Việc phát triển sản xuất ttấm năng lượng mặt trời, ắc quy trữ năng và những công nghệ liên quan ngay trong nước sẽ giúp giảm phụ thuộc nhập khẩu, tạo việc làm có giá trị gia tăng cao và thúc đẩy đổi mới sáng tạo”, ông nói.
Việt Nam cũng đang sở hữu lợi thế về mạng lưới hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là EVFTA và CPTPP, cho phép tiếp cận nhiều thị trường lớn với điều kiện ưu đãi, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Để giữ vững vị thế trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, ông Khương đề xuất Việt Nam cần tập trung vào ba trụ cột chính: thúc đẩy sản xuất trong nước thông qua hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế và cải cách hành chính; tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và xây dựng liên doanh chiến lược; đồng thời đầu tư mạnh cho nghiên cứu và phát triển các công nghệ lưu trữ phù hợp với điều kiện quốc gia.

Song song đó, việc hiện đại hóa lưới điện và hệ thống lưu trữ được xem là cấp thiết để tích hợp hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo gián đoạn và nâng cao độ ổn định của hệ thống. Ông cũng nhấn mạnh vai trò của quan hệ đối tác công – tư trong việc huy động nguồn lực và chuyên môn, từ đó thúc đẩy cải thiện hạ tầng.
Cuối cùng, Việt Nam cần xây dựng một khung chính sách năng lượng ổn định, minh bạch và dài hạn, giúp củng cố niềm tin của nhà đầu tư quốc tế. Những chính sách rõ ràng, nhất quán và có tính khuyến khích cao sẽ giúp định vị Việt Nam là điểm đến hấp dẫn trong ngành năng lượng tái tạo toàn cầu.
“Mặc dù căng thẳng thương mại và thuế đối ứng tiềm ẩn rủi ro, song chính điều này cũng mang đến cho Việt Nam cơ hội độc đáo để xây dựng ngành năng lượng tái tạo tiên tiến và có khả năng phục hồi. Bằng cách tận dụng các nguồn lực hiện có, giải quyết những lỗ hổng thông qua nghiên cứu và giải pháp kỹ thuật, cũng như áp dụng các chính sách toàn diện, Việt Nam có thể biến những thách thức này thành quỹ đạo tăng trưởng bền vững”, ông Khương nhấn mạnh.
Nguồn: Vietnam Finance