(FDI Việt Nam) – Việc triển khai EPR trên thực tế hiện vẫn còn gặp nhiều hạn chế do một số vướng mắc như: hạ tầng thu gom, tái chế chưa được hoàn thiện; chi phí tái chế còn cao; vật liệu tái chế khó tiêu thụ trong nước; hệ thống pháp lý thiếu rõ ràng và chưa có cơ chế giám sát hiệu quả.

Ngày 19/6/2025, Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam (VBCSD – VCCI), trực thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cùng với sự đồng hành của HEINEKEN Việt Nam, tổ chức hội thảo với chủ đề: “Phổ biến các quy định về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) và chia sẻ thông lệ tốt, thảo luận cùng doanh nghiệp”.

EPR
Hạ tầng thu gom – tái chế hiện chưa hoàn thiện.

TRIỂN KHAI EPR CÒN NHIỀU VƯỚNG MẮC

Chia sẻ tại hội thảo, ông Võ Tân Thành – Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) – nhấn mạnh rằng mô hình EPR đã được triển khai hiệu quả tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tính đến năm 2025, đã có khoảng 60–70 quốc gia áp dụng hoặc đang chuẩn bị áp dụng cơ chế này.

Tại Liên minh châu Âu (EU), EPR là yêu cầu bắt buộc đối với nhiều nhóm sản phẩm, trong đó Đức đạt tỷ lệ tái chế bao bì nhựa gần 50% – cao gấp đôi mức trung bình toàn cầu. Tại châu Á, Hàn Quốc và Nhật Bản được xem là những điển hình thành công với hệ thống tái chế hiệu quả, minh bạch và có sự phối hợp đồng bộ giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

“Những số liệu này cho thấy nếu được thiết kế hợp lý và tổ chức thực hiện hiệu quả, EPR không chỉ giảm áp lực môi trường mà còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận các thị trường tiêu dùng khắt khe về môi trường”, ông Tân nhấn mạnh.

Tại Việt Nam, EPR đã được thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, cụ thể hóa tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP, và gần đây là Quyết định 450/QĐ-BTNMT ngày 17/2/2025. Đây là bước tiến quan trọng trong xây dựng chính sách môi trường hiện đại, tiệm cận thông lệ quốc tế.

EPR
Ông Võ Tân Thành, Phó Chủ tịch VCCI phát biểu tại hội thảo.

Tuy nhiên, ông Thành thẳng thắn đánh giá quá trình triển khai thực tế vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Hạ tầng thu gom – tái chế chưa hoàn thiện, hệ thống chính thức còn yếu, phi chính thức khó quản lý. Bên cạnh đó, chi phí tái chế cao, vật liệu tái chế khó tiêu thụ trong nước. Hướng dẫn pháp lý cũng chưa rõ, khiến doanh nghiệp lúng túng trong lựa chọn hình thức thực hiện. Thiếu cơ chế giám sát, năng lực thực thi và truyền thông còn hạn chế.

Đồng tình, ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đánh dấu bước ngoặt trong việc hoàn thiện cơ chế thực thi EPR, với các quy định rõ ràng và toàn diện hơn.

Để cụ thể hóa các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, đặc biệt là các điểm mới liên quan đến chính sách EPR, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022, Nghị định số 05/2025/NĐ-CP ngày 06/01/2025, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022, Thông tư số 07/2025/TT-BTNMT ngày 28/02/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Trong đó đã cơ bản đã hoàn thiện hành lang pháp lý để thực thi quy định về EPR theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Mặc dù vậy, theo ông Thịnh, thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy, EPR là một chính sách mới, có phạm vi điều chỉnh rộng và liên quan đến nhiều nhóm đối tượng như doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, doanh nghiệp tái chế… Trong khi đó, việc tiếp cận và hiểu đúng, đầy đủ các quy định về EPR của một bộ phận doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.

Hiện nay, các nội dung EPR đang được quy định tại một số văn bản như Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Nghị định số 05/2025/NĐ-CP dẫn đến việc khó theo dõi, khó tra cứu cũng như khó thực hiện một cách nhất quán.

Dưới góc nhìn doanh nghiệp, bà Phạm Thị Trúc Thanh – Giám đốc Phát triển Bền vững HEINEKEN Việt Nam – khẳng định rằng EPR là một chính sách then chốt trong thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn. Song song với việc thực thi EPR, doanh nghiệp đang tích cực mở rộng hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước nhằm tăng cường sử dụng vật liệu tái chế, hướng tới mục tiêu từng bước khép kín vòng đời của bao bì.

Tuy nhiên, đại diện HEINEKEN cũng chỉ ra rằng quá trình triển khai EPR tại Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Cụ thể, hạ tầng thu gom chưa đồng bộ và công nghệ tái chế chất lượng cao còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả tổng thể của chính sách. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực thi chính sách EPR, nhằm nâng cao tỷ lệ thu gom, giảm thiểu thất thoát tài nguyên và thúc đẩy nền tái chế khép kín.

CẦN MỘT NGHỊ ĐỊNH RIÊNG VỀ EPR

Trước các bất cập trên, các ý kiến đều nhận định việc chuẩn bị ban hành một Nghị định riêng về EPR là rất cần thiết, nhằm cụ thể hóa cơ chế thực hiện, xử lý các bất cập hiện tại và tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho doanh nghiệp.

Theo ông Thịnh, để khắc phục các bất cập hiện hữu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ động đề xuất xây dựng một Nghị định riêng quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu.

EPR
Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

“Việc ban hành một nghị định riêng về EPR không chỉ là giải pháp kỹ thuật để khắc phục sự phân tán trong hệ thống pháp luật hiện hành mà còn làm rõ các quy định về cơ chế tài chính hỗ trợ tái chế, hỗ trợ xử lý chất thải, tạo hành lang pháp lý minh bạch, khả thi và phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý môi trường trong giai đoạn mới”, ông Thịnh nhấn mạnh.

Đồng thời thể hiện cam kết rõ ràng của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, giảm thiểu chất thải, thúc đẩy tái chế và sử dụng hiệu quả tài nguyên. Đây cũng là bước đi phù hợp với thông lệ quốc tế, khi nhiều quốc gia tiên tiến như Hàn Quốc, Đài Loan,… đều đã có các văn bản pháp lý riêng, chuyên biệt cho EPR, qua đó nâng cao hiệu quả thực thi và tạo sự minh bạch cho toàn bộ hệ thống.

Chi tiết hơn, ông Thịnh cho rằng dự thảo Nghị định về EPR cần phù hợp, thống nhất với các quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 2020 đặc biệt là Điều 54 và Điều 55 về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu.

“Trong đó tập trung làm rõ dự thảo quy định đã đầy đủ căn cứ pháp lý, đã thể hiện được hết nội dung, tinh thần của Luật bảo vệ môi trường 2020 hay chưa?. Các quy định đã bảo đảm tính khả thi, phù hợp khi triển khai trên thực tế hay không?…”, ông Thịnh đề xuất.

Cùng với đó, cần xem xét kỹ các nội dung mới của Nghị định bên cạnh các quy định kế thừa tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Nghị định 05/2025/NĐ- CP như: quy định về thải bỏ phương tiện giao thông; quy định về đăng ký kế hoạch và báo cáo kết quả tái chế nhằm; quy định về về tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế bắt buộc,…

Đồng thời, cần nghiên cứu và đề xuất cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan nhằm bảo đảm điều kiện thực thi Nghị định một cách đồng bộ và khả thi. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế tuần hoàn, trong đó EPR được xác định là công cụ trung tâm, đóng vai trò dẫn dắt quá trình chuyển đổi.

Nguồn: VN Economy

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *