(FDI Việt Nam) – Trước nguy cơ thiếu hụt nguồn cát, đất san lấp ảnh hưởng đến tiến độ dự án Vành đai 4 TP.HCM, nhiều đại biểu đề xuất nên điều chỉnh thiết kế các đoạn tuyến có nền đất yếu, dễ sụt lún theo hướng xây dựng cầu cạn. Giải pháp này được kỳ vọng giúp giảm thu hồi đất, tiết kiệm vật liệu đắp, đồng thời hạn chế tình trạng ngập úng và tác động tiêu cực đến môi trường.

Chiều 20/6, trong phiên thảo luận tại hội trường, các đại biểu Quốc hội bày tỏ sự thống nhất cao với chủ trương đầu tư dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku, đường Vành đai 4 TP.Hồ Chí Minh và việc điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1, khẳng định đây là những công trình quan trọng, cần thiết nhằm thúc đẩy liên kết vùng và phát triển kinh tế – xã hội.
CAO TỐC QUY NHƠN – PLEIKU: ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN, LIÊN KẾT VÙNG
Góp ý về dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn– Pleiku, đại biểu Siu Hương, đoàn Gia Lai cho rằng đây là dự án có ý nghĩa chiến lược, là động lực để phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc phòng- an ninh và thúc đẩy liên kết vùng. Đồng thời là trục giao thông Đông- Tây quan trọng nhất kết nối khu vực Tây Nguyên với các cảng biển lớn như Quy Nhơn, Dung Quất, đồng thời mở ra cơ hội giao thương xuyên biên giới với Nam Lào và Đông Bắc Campuchia.
Đại biểu đoàn Gia Lai khẳng định dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn– Pleiku được xây dựng, hoàn thành sẽ giảm tải cho tuyến quốc lộ 19, rút ngắn thời gian di chuyển từ 3,5- 4 giờ xuống còn 2- 2,5 giờ; giảm 50- 60% chi phí vận tải.
Dự án sẽ giúp làm giảm chi phí logistics, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển nông sản và hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là các sản phẩm chủ lực của Tây Nguyên như cà phê, hồ tiêu, cao su ra cảng biển Quy Nhơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thu hút đầu tư FDI.

Dự án đi vào triển khai còn có khả năng thúc đẩy công nghiệp và đô thị hóa, góp phần giảm dân, giảm áp lực lên các đô thị lớn, đồng thời tạo thêm quỹ đất cho phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân, kích thích phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, trung tâm logistics và các khu du lịch, di tích lịch sử dọc tuyến như di tích Tây Sơn Thượng đạo, Rộc Tưng- Gò Đá.
Đặc biệt, đại biểu cho rằng dự án còn mang ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh sắp xếp lại không gian hành chính và kinh tế.
Ngày 12/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, theo đó sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Gia Lai với trung tâm hành chính đặt tại Quy Nhơn. Khi đó cao tốc này sẽ là cầu nối quan trọng đảm bảo việc di chuyển nhanh chóng, an toàn giữa các khu vực, phục vụ công tác quản lý nhà nước và tăng cường khả năng kiểm soát khu vực biên giới…
Trước sự cần thiết, cấp bách của dự án, đại biểu cho biết về phía tỉnh Gia Lai đã rất chủ động trong công tác chuẩn bị, đã phối hợp với các cơ quan có liên quan để triển khai các phần việc trong dự án như thống nhất hướng tuyến và rà soát nguồn vật liệu với 60 mỏ đất đắp và 38 mỏ đá, cam kết bố trí ngân sách cho giải phóng mặt bằng…
ĐỀ XUẤT LÀM CẦU CẠN ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG KHAN HIẾM VẬT LIỆU SAN LẤP CHO DỰ ÁN VÀNH ĐAI 4
Phát biểu thảo luận, đại biểu Phạm Văn Hòa, đoàn Đồng Tháp nhấn mạnh sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng đường Vành đai 4 ở Tp.Hồ Chí Minh. Đây là tuyến đường huyết mạch, không chỉ phục vụ TP.Hồ Chí Minh mà còn kết nối, tạo động lực phát triển cho cả vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Tuyến đường này sẽ liên kết đồng bộ cảng biển, cảng sông, sân bay và các khu đô thị mới, tạo ra một mạng lưới giao thông liên vùng hoàn chỉnh.
Về tiến độ triển khai dự án, đại biểu thống nhất về phương án thiết kế xây dựng. Tuy nhiên, trong dự án có đề cập việc xây dựng san lấp, đất san lấp hiện nay đang rất gặp nhiều khó khăn.

Theo đại biểu, hiện nay không chỉ tuyến đường này mà cả miền Tây, miền Đông tập trung triển khai xây dựng đường cao tốc và khẳng định đất, cát để san lấp cho đường rất khan hiếm, giá cả rất cao, chưa nói tới người dân xây dựng dân dụng san lấp.
Về tình trạng khan hiếm vật liệu cát, đất san lấp, đại biểu đề xuất, tại những nơi có nền đất yếu, sụt lún như ở Long An, thay vì đắp nền đường, nên nghiên cứu thiết kế xây dựng cầu cạn. Việc này sẽ giúp giảm bớt áp lực về vật liệu san lấp… Theo đại biểu, không chỉ dự án này mà còn các dự án xây dựng đường cao tốc khác, nên đất và cát để san lấp cho đường rất khan hiếm, chưa nói tới người dân xây dựng dân dụng san lấp.

Cùng quan tâm góp ý vấn đề này, đại biểu Trần Văn Tiến, đoàn Vĩnh Phúc cũng kiến nghị toàn bộ những đoạn tuyến có kết cấu nền đất đắp, nên thiết kế theo dạng kết cấu cầu cạn nhằm giảm thu hồi đất, giảm khối lượng vật liệu đắp và hạn chế ngập úng, lụt lội.
Bên cạnh đó, với các công trình cầu vượt sông, cầu vượt các đường ngang hoặc cầu cống hầm qua đường, ông cho rằng, nên đầu tư giai đoạn 1 hoàn chỉnh theo mặt cắt quy hoạch nhằm hạn chế khó khăn thi công ở giai đoạn sau.
Về các chính sách trong dự thảo Nghị quyết, theo đại biểu tại điểm a khoản 1 có quy định: ”không phải thực hiện cấp phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ dự án”.

Đại biểu đề nghị bổ sung thêm nội dung vào quy định này để đảm bảo tính khả thi, cụ thể, bổ sung cụm từ nhưng phải phù hợp với quy hoạch khai thác mỏ vật liệu xây dựng của địa phương vào sau đoạn câu phục vụ dự án và được chỉnh sửa lại như sau: ”không phải thực hiện cấp phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ dự án nhưng phải phù hợp với quy hoạch khai thác mỏ vật liệu xây dựng của địa phương”.
Trước những lo ngại của đại biểu về tình trạng khan hiếm cát, đất san lấp, đặc biệt ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mật độ cao tốc khu vực này đang được đầu tư lớn, Bộ Xây dựng cho biết Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đang quyết liệt tìm các giải pháp.
Với đường Vành đai 4 Tp.Hồ Chí Minh, lượng cát của Long An, Tiền Giang và một số tỉnh lân cận sẽ đảm bảo đáp ứng đủ các điều kiện để cung cấp cho dự án.
Nguồn: VN Economy