Bộ Giao thông vận tải (GTVT) vừa có văn bản gửi Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà và Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về việc hoàn thiện Quy hoạch chi tiết về ngành hàng hải cụm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, vùng nước, vùng nước giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Hạ tầng hàng hải phát triển hiệu quả
Thực hiện Quy hoạch hệ thống cảng biển đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và điều chỉnh phê duyệt, đến nay, kết cấu hạ tầng hàng hải đã có bước phát triển mạnh mẽ. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện đã hình thành các cổng ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc (Hải Phòng) và phía Nam (Bà Rịa – Vũng Tàu).

Trong đó, các bến cảng được đầu tư chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, nên lượng hàng vượt qua cầu biển đạt thành công thiết kế. Riêng khu bến cảng Cát Lái đạt 1,3 – 1,5 khu công nghiệp thiết kế. Đến năm 2020, thị phần vận tải hàng hóa của lĩnh vực hàng hải chiếm 23,17% toàn ngành nên với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển GTVT Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035 là 9 – 14% (vượt 166 – 257%), mức tăng trưởng bình quân quân đội thông qua cảng biển cả nước đạt 8,4 %/năm giai đoạn 2017 – 2021.
Lĩnh vực hàng hải cũng là lĩnh vực duy nhất tăng trưởng trong 5 lĩnh vực GTVT từ năm 2020 đến nay mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, với tổng lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm 2020 đạt 692,2 triệu tấn so với mục tiêu quy hoạch 640 – 680 triệu tấn (gấp khoảng 8,4 lần năm 2000), đạt mức tăng trưởng 13,3%/năm giai đoạn 2015 – 2020. Trong đó, tăng trưởng hàng container giai đoạn 2017 – Năm 2021 đạt mức 3,5% về tấn (thấp hơn so với tăng trưởng hàng hóa tổng thể là 8,36%) và 9,91% về Teu; hàng khô (hàng tổng hợp, hàng rời) tăng trưởng đạt 15,34%.
Ngoài ra, cả nước hiện đã thiết lập được 34 tuyến đường vận tải biển, bao gồm 11 tuyến nội Á, 3 tuyến đi châu Âu, 20 tuyến đi châu Mỹ, vượt trội so với các nước khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Malaysia và Singapore ). Đáng lưu ý, cụm cảng Cái Mép được xếp hạng thứ 11 trên tổng số 370 cảng/cụm cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu (theo cách tính thống kê trung bình 5 nhóm kích tàu) – tăng 38 bậc so với năm 2020 và xếp thứ 13 về chỉ số “cách tiếp cận hành chính” (theo cách tính kỹ thuật, trọng số cao hơn so với kích tàu phổ biến ở cảng đó) – tăng 5 bậc so với năm 2020; Cảng Vũng Tàu của Việt Nam cũng đạt hạng 37/370 theo cách tính kỹ thuật.
Thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ GTVT), tính đến đầu năm 2023, cả nước có 296 bến cảng, chiều dài khoảng 107 km cầu cảng (gấp 5 lần năm 2000). Đồng thời, đã hình thành các cảng cổng ngõ quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam, cũng như tiếp nhận công-ten-nơ thành công đến 145.000 tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa – Vũng Tàu). Các bến cảng chuyên dùng cũng được phát triển và tiếp nhận được nhiều tàu trọng tải lớn, các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn kết với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện tiếp nhận tàu đến 200.000 tấn, hàng thả đến 150.000 tấn (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320.000 tấn, cơ bản đạt được mục tiêu kế hoạch đến năm 2020.
Với những chính sách mở về đầu tư cảng biển, thời gian qua cảng biển Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp đầu tư khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và khai thác vận tải đường sắt khai thác cảng, đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới, đóng góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục tăng cường đầu tư hạ tầng cảng biển
Theo rà soát của Bộ GTVT, để hoàn thiện “Quy hoạch chi tiết cụm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050” gửi Thủ tướng Chính phủ , tính đến năm 2030, tổng nhu cầu đầu tư cho hệ thống cảng biển khoảng 312,625 tỷ đồng. Trong đó, nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hảng hải công cộng khoảng hơn 70.000 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng hơn 242.000 tỷ đồng.
Cụ thể, đến năm 2025, tập trung đầu tư nâng cấp tuyến Cái Mép – Thị Vải phục vụ tàu hỏa lên 200.000 tấn giảm tải (18.000 Teu); dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu – giai đoạn 2 cho tàu giảm tải đến 20.000 tấn; luồng sông Văn Úc cho tàu 10.000 tấn, luồng sông Chanh cho tàu 50.000 tấn. Nhiều tuyến khu vực miền Trung được ưu tiên nâng cấp như luồng vào cảng Nghi Sơn cho tàu lên đến 50.000 tấn, luồng Thọ Quang cho tàu lên đến 10.000 tấn, luồng Quy Nhơn cho tàu lên đến 50.000 tấn; ưu tiên đầu tiên tắt đèn biển tại các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác đảm bảo an toàn hàng hải; xây dựng Đài thông tin duyên hải, Trung tâm TKCN, Đại diện Cảng vụ hàng hải Nha Trang tại Trường Sa.
Đến năm 2030, tiến hành đầu tư xây dựng công trình đê chắn sóng cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh), đồng thời cải tạo, nâng cấp hệ thống đê chắn cát luồng Cửa Việt, Cửa Gianh cũng như cải tạo, nâng cấp luồng Cam Phả, luồng Ba Ngòi, luồng Hòn La, luồng hàng hải qua cửa Trần Đề và chỉnh trị luồng hàng hải Diêm Điền, Văn Úc.
Hệ thống quản lý hàng hải tàu biển (VTS) cũng sẽ được ưu tiên đầu tư tại luồng Hòn Gai – Cái Lân và luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu. Đối với các bến cảng biển, đến năm 2025 sẽ ưu tiên đưa vào khai thác các bến 3, 4, 5, 6 tại khu bến Lạch Huyện, bến khởi động tại khu bến Liên Chiểu và các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I .
Ngoài ra, các địa phương có biển phát triển các bến du khách quốc tế gắn với các khu động lực phát triển du lịch, cũng như các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực hơn, khí đốt, xăng dầu, luyện kim và bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Giai đoạn này, ngành Hàng hải cũng kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các bến cảng triển vọng như Vân Phong và Trần Đề. Đến giai đoạn năm 2030, sẽ đầu tư bến khởi động khu Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép hạ, hạ lưu Cái Mép hạ và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).