(FDI Việt Nam) – Tổng nhu cầu đầu tư cho hệ thống cảng biển Sóc Trăng trong giai đoạn đến năm 2030 ước tính khoảng 61.513 tỷ đồng, trong đó 19.607 tỷ đồng sẽ được dành cho hạ tầng hàng hải công cộng và 41.906 tỷ đồng cho các bến cảng phục vụ khai thác dịch vụ.
MỤC TIÊU ĐẾN NĂM 2030 CÓ 18 CẦU CẢNG , ĐÓN 41 TRIỆU TẤN HÀNG/ NĂM
Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam đã trình Bộ Xây dựng dự thảo Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất và vùng nước cảng biển Sóc Trăng cho giai đoạn 2021 – 2030, với tầm nhìn đến năm 2050.
Dự thảo cho thấy, đến năm 2030, cảng biển Sóc Trăng sẽ bao gồm các khu bến Kế Sách, Đại Ngãi, Trần Đề, cùng các khu neo đậu, chuyển tải và tránh trú bão. Cụ thể, quy hoạch hạ tầng sẽ có 6 bến cảng, từ 16 đến 18 cầu cảng, với tổng chiều dài từ 2.693 đến 3.493m (chưa bao gồm các cảng khác).

Dự thảo quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Sóc Trăng đặt ra mục tiêu quan trọng cho giai đoạn đến năm 2030, trong đó sản lượng hàng hóa dự kiến đạt từ 30,7 đến 41,2 triệu tấn mỗi năm. Đặc biệt, lượng hàng container sẽ đạt từ 0,97 triệu đến 1,36 triệu TEUs, trong khi sản lượng hành khách cũng sẽ đạt từ 522.100 đến 566.300 lượt mỗi năm.
Về hạ tầng cảng biển, quy hoạch này dự kiến xây dựng 6 bến cảng mới cùng với 16 đến 18 cầu cảng, với tổng chiều dài dự kiến đạt từ 2.693 đến 3.493m. Con số này chưa tính đến các cảng khác trong khu vực.
Tầm nhìn đến năm 2050, cảng biển Sóc Trăng được kỳ vọng sẽ đạt mức tăng trưởng hàng hóa bình quân từ 5,5 đến 6,1% mỗi năm và tăng trưởng hành khách từ 1,1 đến 1,25% mỗi năm. Mục tiêu là hình thành một cảng cửa ngõ quan trọng cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực.
Để đạt được những mục tiêu này, dự báo tổng nhu cầu sử dụng đất cho hệ thống cảng biển Sóc Trăng đến năm 2030 sẽ vào khoảng 1.331ha, trong khi diện tích mặt nước cần thiết ước tính lên tới 148.486ha. Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 61.513 tỷ đồng, trong đó 19.607 tỷ đồng sẽ được dành cho hạ tầng hàng hải công cộng và 41.906 tỷ đồng cho các bến cảng phục vụ khai thác dịch vụ
Quy hoạch cũng xác định một số dự án ưu tiên đầu tư, trong đó quan trọng nhất là đầu tư hạ tầng công cộng khu cảng ngoài khơi Trần Đề (luồng tàu, đê chắn sóng, cầu vượt biển) đồng bộ với quy mô bến cảng;
Phát triển kết cấu bảo đảm an toàn hàng hải: khu neo đậu tránh trú bão, đài thông tin duyên hải, hệ thống VTS, bến công vụ…; Hoàn thiện cảng phục vụ Long Phú 1 và thu hút đầu tư khu bến Trần Đề.
CƠ SỞ HẠ TẦNG HIỆN TẠI CÒN KHIÊM TỐN
Theo thông tin từ Báo Xây dựng, hiện nay cảng biển Sóc Trăng có tổng cộng 2 cầu cảng với chiều dài khoảng 328m. Trong đó, khu bến Kế Sách sở hữu một cầu cảng dài 290m, có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải đến 20.000 tấn để giảm tải. Khu bến Trần Đề có một cầu cảng hành khách dài 38m, tiếp nhận tàu trọng tải tối đa đến 200 tấn.
Bên cạnh đó, khu bến Đại Ngãi đang trong quá trình đầu tư và xây dựng bến cảng chuyên dụng phục vụ Nhà máy nhiệt điện Long Phú 1. Bến cảng này sẽ bao gồm 6 cầu cảng, tổng chiều dài 630m, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải đến 10.000 tấn.

Về hệ thống luồng hàng hải, khu vực này có một số luồng quan trọng để tàu lớn có thể vào các tuyến sông, bao gồm: luồng cho tàu lớn vào sông Hậu dài 52,6km, độ sâu -6,5m; luồng Định An – Cần Thơ dài 90,3km, độ sâu hơn -4m; và luồng Trần Đề dài 68,9km, độ sâu hơn -2,8m.
Khu vực có vùng đón trả hoa tiêu, kiểm dịch; giao thông kết nối đường bộ và đường thủy hiện hữu. Các bến cảng đều tuân thủ quy định về an toàn, môi trường, cháy nổ và vận hành hiệu quả nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý và vận hành cảng.
Tuy nhiên, hạ tầng sau cảng, nhất là các khu công nghiệp tại Đại Ngãi và Trần Đề, phát triển chậm. Bến cảng chuyên dùng cho Long Phú 1 cũng chưa được triển khai kịp do thay đổi tiến độ xây dựng Nhà máy theo Quy hoạch điện VIII, khiến lượng hàng hóa thông qua cảng thấp.
Ngoài những thuận lợi, khu vực cảng biển Sóc Trăng còn đối mặt với một số thách thức lớn. Một trong những vấn đề chính là việc chưa có quy hoạch ổn định cho các vị trí đổ chất nạo vét, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác duy tu luồng hàng hải và làm giảm năng lực khai thác của cảng. Công tác nạo vét gặp khó khăn do hiện tượng sa bồi lớn, cùng với việc thiếu điểm tiếp nhận bùn nạo vét, dẫn đến những hạn chế trong việc duy trì sự ổn định của luồng hàng hải.
Đặc biệt, vấn đề nan giải nhất hiện nay là kết nối ra biển qua cửa Định An và Trần Đề. Mặc dù đã được nghiên cứu và cải tạo trong suốt nhiều thập kỷ qua, nhưng đến nay, cửa Định An và Trần Đề vẫn chưa thể khai thác ổn định cho tàu có tải trọng lớn. Điều này tạo ra một trở ngại lớn đối với việc phát triển và mở rộng khả năng vận tải của cảng biển Sóc Trăng trong tương lai.
Nguồn: Báo xây dựng