(FDI Việt Nam) – Chi phí dịch vụ logistics Việt Nam vẫn duy trì ở mức cao so với trung bình thế giới, trở thành rào cản lớn khiến năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Logistics là ngành dịch vụ tổng hợp, giữ vai trò nền tảng quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Đây là cầu nối hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên cả nước cũng như tại từng địa phương, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, chi phí dịch vụ logistics Việt Nam vẫn ở mức cao hơn so với trung bình thế giới, trở thành rào cản làm giảm sức cạnh tranh và ảnh hưởng đến vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

logistics việt nam
Tàu ONE EAGLE thuộc tuyến dịch vụ mới do Liên minh Premier khai thác tại Cảng Quốc tế Tân Cảng – Cái Mép. – Ảnh: TTXVN

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, ngành logistics Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến vượt bậc nhờ vào nỗ lực không ngừng nghỉ trong thời gian qua. Tuy vậy, ngành vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn và thách thức trên chặng đường phát triển.

Những điểm sáng tích cực cho ngành logistics Việt Nam

Theo báo cáo mới nhất từ Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện xếp thứ 43 trong tổng số 139 nền kinh tế về Chỉ số hiệu quả logistics, tăng 10 bậc so với năm 2010. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam nằm trong top 5, ngang hàng với Philippines và chỉ xếp sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Theo đánh giá từ Agility – một trong những nhà cung cấp dịch vụ vận tải và hậu cần kho vận hàng đầu thế giới – Việt Nam nằm trong top 10/50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu. Đáng chú ý, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về chỉ số cơ hội logistics quốc tế và được xem là quốc gia có tiềm năng phát triển logistics hàng đầu khu vực ASEAN.

Các đánh giá trên cho thấy, hiệu quả hoạt động của ngành logistics Việt Nam đang dần được cải thiện và có sức hấp dẫn đối với thế giới.

Ông Stéphane Graber, Tổng Giám đốc Liên đoàn các hiệp hội giao nhận vận tải quốc tế (FIATA), nhận định rằng Việt Nam đã cho thấy quyết tâm mạnh mẽ khi cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.

Theo ông, đây là mục tiêu chung mà thế giới đang hướng tới, đặt Việt Nam vào vị thế thuận lợi để thực hiện chuyển đổi xanh. Điều này không chỉ giúp Việt Nam thu hút các đối tác thương mại lớn mà còn góp phần tối ưu hóa chuỗi cung ứng, thúc đẩy phát triển bền vững.

logistics Việt Nam
Kho bãi chứa container tại cảng Tân Vũ, Hải Phòng. – Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), ông Đào Trọng Khoa, cho biết sau nhiều năm nỗ lực và nhờ vào những điểm sáng đạt được, VLA đã thành công đưa Việt Nam trở thành nước đăng cai sự kiện FIATA World Congress 2025 – đại hội lớn nhất của ngành logistics toàn cầu.

Sự kiện lần này được coi là cơ hội vàng để quảng bá sức hút của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, khi FIATA là tổ chức quy tụ thành viên từ 154 quốc gia thành viên.

Vì được tổ chức luân phiên hàng năm giữa các châu lục, việc sự kiện quay trở lại Việt Nam là điều không hề dễ dàng.

Ông Đào Trọng Khoa nhận định, với loạt hiệp định thương mại tự do đã ký kết với nhiều thị trường lớn trên thế giới, Việt Nam đang dần khẳng định vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Việt Nam không chỉ nổi bật với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như may mặc, giày dép, đồ gỗ và nông sản, mà còn vươn lên trở thành điểm đến hấp dẫn trong lĩnh vực công nghệ cao. Nhiều “ông lớn” toàn cầu như Samsung, LG, Foxconn, Intel và Nvidia đã lựa chọn Việt Nam làm trung tâm sản xuất chiến lược.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đóng vai trò là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, với cảng Cái Mép xếp hạng 7 thế giới về hiệu suất cảng container.

Thị trường logistics Việt Nam hiện có hơn 40.000 doanh nghiệp hoạt động, với tốc độ tăng trưởng 12-14% mỗi năm, được định giá hơn 60 tỷ USD.

Việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng như sân bay quốc tế Long Thành, các tuyến đường cao tốc, đường sắt cao tốc Bắc – Nam, cảng biển và khu thương mại tự do sẽ giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ logistics toàn cầu.

Theo bà Phạm Thị Lan Hương, Trưởng Ban Logistics của VLA, ngành logistics Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển đầy triển vọng nhờ sự quan tâm và thúc đẩy mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Hàng loạt giải pháp đồng bộ đã và đang được triển khai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành bứt phá.

Đáng chú ý, nhiều chính sách hỗ trợ được ban hành để thực hiện Quyết định số 200/QĐ-TTg năm 2017 và Quyết định số 221/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng, với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển logistics Việt Nam bền vững.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đang chủ trì xây dựng Chiến lược phát triển logistics quốc gia. Đồng thời, nhiều địa phương đã tích cực lồng ghép nội dung quy hoạch logistics vào quy hoạch tỉnh được Chính phủ phê duyệt, ban hành các kế hoạch phát triển và tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư cho lĩnh vực này.

Với nền kinh tế Việt Nam tiếp tục được dự báo tăng trưởng mạnh mẽ, cùng quyết tâm đạt mức tăng trưởng từ 8% trở lên vào năm 2025, tạo tiền đề cho tốc độ tăng trưởng hai con số trong tương lai, ngành logistics đang đứng trước cơ hội lớn để vươn mình phát triển mạnh mẽ.

Ông Van Doorslaer Geerart Karel S, Cố vấn Công ty T&M Forwarding, người đã gắn bó với Việt Nam suốt 21 năm, chia sẻ rằng ông đã chứng kiến những bước chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho ngành logistics Việt Nam. Đặc biệt, ông đánh giá cao quyết tâm và những hành động cụ thể của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Theo ông, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức 6-7% mỗi năm – một con số ấn tượng mà ông luôn mong ước, ngay cả EU cũng chưa thể đạt được.

Thách thức nào cho ngành Logistics Việt Nam

Mặc dù sở hữu nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển lớn, ngành logistics Việt Nam vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, hạn chế và thách thức.

Theo thống kê từ Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) và Bộ Công Thương, chi phí logistics Việt Nam hiện chiếm khoảng 16,5 – 16,8% GDP, cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn cầu là 11,6%.

logistics Việt Nam
Bốc dỡ container lên tàu tại Cảng Quốc tế Gemalink, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. – Ảnh: TTXVN

Báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) chỉ ra rằng nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nhiều yếu tố. Cụ thể, 62% doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng; 57% doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi hạ tầng logistics chưa đồng bộ; 53% doanh nghiệp gặp trở ngại vì chi phí đầu tư công nghệ cao; và 55% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tích hợp các hệ thống công nghệ mới với hệ thống cũ.

Bên cạnh đó, chương trình đào tạo tại các trường đại học vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ và xu hướng ngành, trong khi số lượng giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế. Theo VLA, chỉ khoảng 24% nhân lực trong ngành logistics được đào tạo chuyên sâu, khiến nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một bài toán nan giải.

Ông Nguyễn Hoài Chung, Ủy viên Ban chấp hành VLA kiêm Giám đốc Sàn giao dịch logistics quốc tế Phaata, nhận định chi phí vận tải nội địa dự kiến sẽ tăng do tác động từ quá trình tinh gọn bộ máy các cơ quan nhà nước và quy định mới về thời gian vận hành phương tiện trong luật giao thông.

Trong khi đó, trên thị trường quốc tế, giá cước được dự báo sẽ tiếp tục xu hướng giảm trong dài hạn do sự mất cân bằng giữa cung và cầu. Cụ thể, nhu cầu vận chuyển năm 2025 ước tính chỉ tăng khoảng 3% so với năm 2024, trong khi nguồn cung tàu mới đưa vào thị trường lại tăng tới 8%.

Ngoài ra, nếu chính quyền của Tổng thống Trump tiếp tục duy trì mức thuế cao đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu, sản lượng hàng hóa từ châu Á sang Mỹ và EU sẽ giảm. Bên cạnh đó, những bất định và khó khăn trong thời gian tới có thể khiến nhu cầu vận chuyển tiếp tục giảm, kéo theo sự sụt giảm giá cước vận tải.

Tuy nhiên, thời gian và chi phí logistics vẫn được dự báo tăng do các quốc gia tăng thêm các quy định mới với nhiều thủ tục. Rủi ro các cuộc đình công ở một số cảng biển có thể dẫn đến tình trạng kẹt cảng.

Phí bảo hiểm vận tải hàng hóa trên các tuyến có rủi ro cao đang tăng mạnh. Ông Huỳnh Lê Đại Thắng, Ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM, cho biết dù Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu lớn trên thế giới, việc thương lượng giá cước với các hãng tàu vẫn gặp nhiều khó khăn.

Hiện nay, giá cước chỉ có hiệu lực trong vòng 2 tuần, sau đó phải cập nhật lại mức giá mới. Đặc biệt, trong giai đoạn cao điểm “sốt giá” vào tháng 12 vừa qua, chi phí vận chuyển một container từ Việt Nam sang Mỹ lên tới 10.000 USD, trong khi cùng tuyến từ Trung Quốc chỉ khoảng 3.500 USD.

Nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn quá nhỏ so với Trung Quốc, khiến họ không thể hưởng lợi thế về giá cước. Trong khi đó, với sản lượng xuất khẩu lớn, sở hữu cả tàu và container, Trung Quốc có vị thế tốt hơn trong việc đàm phán và tối ưu chi phí vận chuyển.

Ngoài các thách thức trên là thách thức xanh hóa và phát triển bền vững. Theo ông Nguyễn Duy Minh, Phó Chủ tịch VLA, xanh hóa và phát triển bền vững không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp.

Hiện nay, thế giới đã thiết lập luật chơi mới trong chuỗi cung ứng với yêu cầu giảm phát thải và công bố lộ trình thực hiện rõ ràng. Theo khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), có tới 65% khách hàng ưu tiên lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ logistics sở hữu chứng nhận môi trường.

Là một trong những ngành có mức phát thải lớn, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải, logistics đứng trước nguy cơ mất khách hàng nếu không đáp ứng được tiêu chí xanh hóa. Nhiều doanh nghiệp có thể bị chấm dứt hợp đồng hoặc bị thay thế bởi các đơn vị dịch vụ đạt chuẩn bền vững hơn.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang mô hình xanh hóa và phát triển bền vững không phải là bài toán dễ dàng. Theo bà Phạm Thị Lan Hương, các doanh nghiệp logistics Việt Nam phần lớn là vừa và nhỏ, với nguồn vốn và nhân lực còn hạn chế. Điều này khiến họ gặp nhiều khó khăn trong việc cân bằng giữa ba mục tiêu: kinh tế, môi trường và xã hội.

Việc ập trung vào giảm phát thải và tối ưu năng lượng bền vững luôn đi kèm với bài toán về hiệu quả kinh tế. Doanh nghiệp cần đảm bảo rằng mức giá bán ra có thể bù đắp chi phí đã bỏ ra. Chỉ khi cân bằng được cả ba yếu tố này, doanh nghiệp mới có thể tiến tới quá trình xanh hóa một cách bền vững.

Nguồn: Việt Nam Plus

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *