(FDI Việt Nam) – Theo các chuyên gia, việc bãi bỏ thuế khoán sẽ giải quyết tình trạng bất bình đẳng giữa doanh nghiệp và hộ kinh doanh, đồng thời góp phần minh bạch hóa thu nhập, chống thất thu thuế và thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh.
CÁC HỘ KINH DOANH LO LẮNG VÌ KHÔNG RÀNH CÔNG NGHỆ
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có một điểm đáng chú ý là yêu cầu xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất vào năm 2026.
Hiện tại, cả nước có khoảng 3,6 triệu hộ kinh doanh đang được quản lý thuế, và gần 2 triệu hộ (tương đương 66%) vẫn đang nộp thuế theo hình thức khoán. Trung bình trong quý I, mỗi hộ nộp khoảng 672.000 đồng/tháng.
Thông tin về việc loại bỏ thuế khoán đã khiến nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ không khỏi lo lắng. Chị Nguyễn Thị Ngọc Bích (huyện Kim Thành, Hải Dương) chia sẻ rằng gia đình chị chuyên bán đặc sản địa phương cả online và tại cửa hàng ở nhà. Nhiều năm nay, gia đình chị vẫn nộp thuế khoán khoảng 1 triệu đồng/tháng.
“Tôi không có nhân sự kế toán, cũng không quen dùng máy móc, phần mềm hay xuất hóa đơn. Nếu phải đầu tư máy tính tiền, phần mềm, rồi kết nối dữ liệu điện tử, tôi sợ chi phí vượt quá khả năng”, chị chia sẻ.
Theo chị Bích, với các hộ nhỏ như gia đình mình, việc duy trì kinh doanh ổn định đã khó, nay lại thêm nỗi lo về chi phí và kỹ thuật nếu phải áp dụng mô hình quản lý thuế như doanh nghiệp.

Tương tự, ông Trần Quang Huyền – chủ cửa hàng kinh doanh xe đạp thể thao và xe đạp điện tại TP Từ Sơn (Bắc Ninh) cũng bày tỏ những băn khoăn nếu phải chuyển đổi khỏi hình thức thuế khoán. Ông cho biết đã quen quản lý bằng sổ sách ghi tay, hóa đơn viết tay, nên việc chuyển sang hệ thống số hóa khiến ông e ngại. “Tôi không rành công nghệ cao, trong khi hiện nay có quá nhiều chiêu trò lừa đảo trên mạng,” ông chia sẻ.
Một thực tế khác khiến ông Huyền lo lắng là đặc thù kinh doanh của cửa hàng không chỉ bán xe mới nhập từ hãng mà còn thu mua xe từ khách hàng để sửa chữa, tân trang và bán lại. Vì vậy, ông mong sớm có hướng dẫn cụ thể về cách kê khai các khoản chi phí đầu vào này để được trừ trước khi tính thuế.
Ngoài ra, dù doanh thu từ việc bán xe có thể lên đến vài tỷ đồng mỗi năm, ông cho biết lợi nhuận thực tế lại không cao. Nếu bỏ hình thức thuế khoán, ông lo lắng mức thuế phải nộp sẽ bị đội lên nhiều lần so với trước đây. Ông cho rằng cần có hướng dẫn tính thuế phù hợp với các hộ kinh doanh nhỏ, có doanh thu 3-4 tỷ đồng/năm.
CƠ CHẾ THUẾ KHOÁN DẦN BỘC LỘ HẠN CHẾ
TS. Ngô Minh Vũ, Giảng viên Đại học Kinh tế TP.HCM (UEH), nhận định việc xóa bỏ cơ chế thuế khoán phản ánh định hướng cải cách đồng bộ từ Nhà nước. Mục tiêu là nhằm nâng cao năng lực quản lý thuế và khuyến khích các hộ kinh doanh hướng tới hoạt động chuyên nghiệp hơn.

Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ sang số hóa, thuế khoán từng được xem là một giải pháp tạm thời. Tuy nhiên, cơ chế này dần bộc lộ những hạn chế, đặc biệt trong việc đảm bảo tính công bằng và minh bạch.
Thực tiễn cho thấy, thuế khoán từng là công cụ hữu hiệu khi phần lớn hộ kinh doanh chưa có khả năng kê khai đầy đủ hoặc thiếu phương tiện công nghệ để xác định nghĩa vụ thuế chính xác. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, khi hạ tầng thanh toán không dùng tiền mặt và các công cụ hỗ trợ quản lý doanh thu phát triển mạnh, việc tiếp tục duy trì thuế khoán không còn phù hợp.
TS. Nguyễn Ngọc Tú, nguyên Vụ trưởng Tổng cục Thuế và nguyên Tổng biên tập Tạp chí Thuế, hiện là giảng viên Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, cho biết cả nước có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh nhưng chỉ một số ít kê khai lên mô hình doanh nghiệp.
Theo ông Tú, hạn chế tồn tại là do các hộ kinh doanh không có sổ sách kế toán, khiến cơ quan quản lý không thể nắm rõ tình hình kinh doanh thực tế. Ông đánh giá hình thức thuế khoán hiện hành không đi vào thực chất, gây thất thu ngân sách Nhà nước, thậm chí còn phát sinh tiêu cực.
Theo ông Tú, nếu tiếp tục duy trì hình thức thuế khoán trong bối cảnh cả nước đang chuyển sang kinh tế số sẽ tạo ra khoảng trống. “Các doanh nghiệp có hóa đơn, chứng từ… trong khi hộ kinh doanh không có. Điều này đòi hỏi sự đồng bộ, mắt xích với nhau”, ông nói và cho rằng việc duy trì hình thức thuế khoán gây bất bình đẳng trong xã hội.
Bộ Chính trị đặt mục tiêu xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh chậm nhất trong năm 2026. Theo ông tú, hình thức thuế khoán lẽ ra phải được bỏ từ lâu. “Nhưng muộn còn hơn không. Việc bỏ là cần thiết và khách quan”, ông nói.
Theo ông Tú, khi bãi bỏ hình thức thuế khoán, các hộ kinh doanh sẽ buộc phải thực hiện hóa đơn chứng từ, sổ sách kế toán. Điều này sẽ giúp bức tranh nền kinh tế trở nên minh bạch hơn, từ đó thu thuế đúng và đủ hơn.
Ông Tú dẫn chứng rằng không ít hộ kinh doanh cá thể có tiềm năng lớn nhưng lại nộp thuế rất thấp. “Gần 2 triệu người làm công ăn lương, không kinh doanh mà nộp thuế thu nhập cá nhân một năm lên tới 170.000 tỷ đồng, bằng 9-10% ngân sách Nhà nước. Trong khi đó, khối hộ kinh doanh lớn mạnh hơn hàng năm chỉ nộp thuế từ 25.000-26.000 tỷ đồng,” ông nêu ví dụ.

Ông cho rằng, việc loại bỏ hình thức thuế khoán sẽ tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh quản trị tài chính tốt hơn, hiểu rõ hơn về số liệu kinh doanh của mình. Điều này giúp phản ánh trung thực và đầy đủ hơn doanh thu thực tế của các hộ kinh doanh.
Đồng quan điểm TS Ngô Minh Vũ nhận định cơ chế thuế cũ cũng bị cho là tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nhóm kinh doanh. Trong khi các doanh nghiệp chính quy thực hiện kê khai đầy đủ thì một bộ phận hộ kinh doanh – dưới dạng nhỏ lẻ nhưng có doanh thu lớn lại được hưởng mức thuế khoán thấp, gây ra cạnh tranh thiếu lành mạnh. Đồng thời, điều này cũng tạo ra các “kẽ hở” trong quản lý thuế và chống thất thu ngân sách.
CẦN CÓ LỘ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI PHÙ HỢP
Các chuyên gia cũng nhận định rằng dấu mốc năm 2026 đang đến gần, và việc xóa bỏ ngay lập tức hình thức thuế khoán để áp dụng hình thức mới sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ông Tú đề xuất Nhà nước cần có những lộ trình phù hợp cũng như ban hành Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể. Ngoài ra, cần có những hình thức miễn, giảm thuế đối với những hộ kinh doanh nộp thuế theo sổ sách kế toán mà doanh thu tăng đột biến. “Thậm chí, Nhà nước cũng nên có chính sách khuyến khích những hộ kinh doanh làm tốt, trung thực, kê khai đúng để thực hiện chủ trương của đất nước,” ông nhấn mạnh.
Theo vị chuyên gia này, trước đây, 5 triệu hộ kinh doanh chủ yếu nộp thuế khoán, nên sự thay đổi không thể đột ngột. Ông đề xuất có thể phân loại các hộ kinh doanh theo quy mô lớn, và áp dụng hình thức mới theo ngành, làm trước, làm sau. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện, cần kịp thời xử lý những vi phạm giữa các ngành hàng và giữa các hộ kinh doanh với nhau.

Còn theo ông Vũ, từ góc nhìn quốc tế, nhiều quốc gia có đặc điểm kinh tế tương đồng với Việt Nam. Đơn cử như Indonesia, quốc gia đã bắt đầu cải cách thuế đối với khu vực kinh doanh nhỏ từ sớm. Kể từ năm 2018, Indonesia đã khuyến khích hộ kinh doanh đăng ký mã số thuế, kê khai và nộp thuế qua hệ thống điện tử, đi kèm với chính sách hỗ trợ kỹ thuật và khuyến khích tài chính nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi này.
Với Việt Nam, quá trình thay thế thuế khoán được nhận định là cần một giai đoạn chuyển tiếp hợp lý. Các cơ quan chức năng cần xây dựng cơ chế hỗ trợ rõ ràng, bao gồm cả hướng dẫn kỹ thuật đơn giản, công cụ kê khai thân thiện và ưu đãi kinh tế cụ thể để khuyến khích hộ kinh doanh chủ động thay đổi. Đồng thời, việc tuyên truyền, đào tạo và phổ cập kiến thức về kê khai thuế cũng là yếu tố không thể thiếu.
Về dài hạn, mục tiêu là từng bước đưa toàn bộ hộ kinh doanh vào hệ thống quản lý thống nhất, có mã số thuế riêng, kê khai định kỳ qua nền tảng điện tử. Tuy nhiên, để thực hiện điều này thành công, cần sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan thuế, quản lý thị trường và chính quyền địa phương, cùng với lộ trình rõ ràng và linh hoạt.
Nguồn: Báo Dân trí